Tên di sản : DTLSVH và thắng cảnh Phủ Trèo
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Danh lam thắng cảnh
Sô quyết định : Số 05 VHQĐ
Giới thiệu
Trên quốc lộ 1A từ thành phố Thanh Hóa về phía Bắc qua cầu Lèn (địa giới giữa hai huyện Hà Trung và Hậu Lộc) khoảng 1km, từ đây theo hướng Đông Bắc có con đường liên huyện – đường 13 mới được rải nhựa vài trăm năm trở lại đây, qua các xã Hà Lâm, Hà Toại, Hà Thái của huyện Hà Trung khoảng 10km, ta tới cầu Báo Văn, địa giới của hai huyện Hà Trung và Nga Sơn. Đứng ở trên cầu này nhìn về phía Bắc là dãy núi đá vôi Tam Điệp, nơi có Đường Trèo thắng tích – một ngọn núi trong hệ thống núi Tam Điệp được coi là danh thắng bậc nhất xứ Thanh, dưới chân cầu là làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh quê hương của các nhà thờ Hữu Loan nổi tiếng trong kháng chiến chống Pháp.
Tuy nhiên, để tận hưởng sự kì thú của non nước vùng này, từ cầu Báo Văn cũng trên con đường nhựa qua các xã Nga Lĩnh, Nga Văn, đến ngã tư Hạnh (Nga Mỹ) ta bắt gặp đường 10B, lại theo hướng Bắc qua thị trấn huyện rồi Nga Vân, Nga Giáp và cuối cùng là Nga An, chỗ địa điểm có khu di tích Đường Trèo.
Từ đây, có con đường cổ vắt qua lòng núi, ghi trong sử cũ. Điểm nút của con đường núi đá này, sườn phía Nam là Phủ Trèo (thuộc xã Nga An), về phía Bắc là sông Chính Đại (thuộc xã Nga Điền); cả hai phía của con đường đều hạ thấp xuống và hòa dần vào đồng bằng hai huyện Nga Sơn và Yên Mô của tỉnh Ninh Bình.
Về lịch sử của con đường này chỉ thấy chép trong Đại Nam nhất thống chí là: “Phía Bắc giáp bên Chính Đại (Nga Điền), về phía Nam có đền Liễu Hạnh công chúa, ở giữa có một con đường phẳng rộng, là đường mà các huyện hạ du thuộc hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình trải qua. Từ đời Lê về trước, hành quân phần nhiều đi đường này, chính là chỗ xung yếu lớn ở chỗ đường núi và đường biển tiếp nhau. Lê Quý Đôn trong “Vân Đài loại ngữ” cho rằng: “Đường núi này cùng đường núi Tam Điệp đều do Mã Viện nhà Hán mở”. Đó là sử sách.
Còn trên thực tế, Đường Trèo đi qua hai ngọn núi. Phía Bắc là núi Chú, phía Đông là Yên Ngựa, đường dốc với hàng nghìn bậc đá nhẵn lên tới đỉnh đèo. Từ đỉnh đèo là con đường phẳng đi giữa núi, một bên là thung xôi, một bên giáp vào núi Mã Yên. Một lần đi từ chân đèo phía Nam sang phía Bắc cũng phải mất 30 phút. Ở đỉnh đèo có nhiều tảng đá bằng phẳng như được bào nhẵn từ bao đời để cho du khách dừng chân. Từ đỉnh đèo này nhìn về phía Tây là những ngọn núi vây quanh đều cao sàn sàn bằng nhau, sườn núi đều phủ kín rừng. Ở chân núi là những rừng cây bạch đàn bạt ngàn do con người trồng.
Đi trên con Đường Trèo này, ta như thấy hình ảnh thiên nhiên như thuở nguyên sơ. Những dãy núi đá còn nguyên vẹn cổ kính nghìn đời, như hình ảnh trung thành của thiên nhiên trước khi có bàn tay con người đụng đến.
Núi Đường Trèo lại có nhiều lối lên xuống, nhiều lối tắt qua lại thuận tiện. Vì thế mà trong cuộc hành quân thần tốc ra bắc đại phá quân Thanh (1789), Nguyễn Huệ đã cho quân sĩ dừng lại ở đỉnh đèo này.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, đường trèo lại là con đường di tản của dân cư các làng ở phía Nam như làng Hà, làng Thành,…khi giặc Pháp tấn công từ Điền Hộ và Phát Diệm (Kim Sơn) vào. Và Đường Trèo cũng trở thành con đường của chiến tranh du kích thời chống Pháp, của các lực lượng tự vệ Nga Sơn thời đó, làm bàn đạp để mở những chiến dịch nối huyện Nga Sơn và tỉnh Ninh Bình.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, núi Đường Trèo lại trở thành nơi vận chuyển lương thực, đạn dược qua đây để đưa sang sông Chính Đại, ngược về sông Lèn và các kênh rạch của miền Nam Thanh Hóa để vào Nam. Vì thế mà con đường này và những ngọn núi xung quanh là mục tiêu đánh giá của các đợt oanh kích của máy bay giặc Mỹ từ biển vào.
Núi Đường Trèo còn vinh dự là “Vọng Hải Đài” trên bờ biển Đông. Vào những năm 1965 – 1975, dải núi này lại là nơi đóng quân, canh gác bờ biển của lực lượng Hải Quân Việt Nam cho đến sau ngày giải phóng Miền Nam.
Đúng trên đỉnh núi Đường Trèo nhìn ra nhóm núi hòn Nẹ, hòn Mê trên biển ta thấy rõ từ cây và cảnh vật. Dưới chân núi là dải đất rộng dài chạy ra phía Bắc, phía Nam và phía Tây cho đến khi mờ dần ở chân trời.
Như vậy, núi Đường Trèo không chỉ là thắng cảnh của đất nước mà lại còn chứng kiến nhiều kì tích của lịch sử dân tộc.
Về quy mô cấu trúc: gồm 5 gian tiền đường (dài 21,9m x rộng 14,4m = 315m2).
Hậu cung: dài 6,8m x rộng 4,2m = 28,5m2. Trước nhà tiền đường là nhà bái đường (sân). Ngoài cùng là nghinh môn. Đền dựa theo hướng Nam (lưng tựa vào núi, mặt quay hướng ra biển). Trong đền có tượng Liễu Hạnh, tượng Tam tòa Thánh Mẫu, Ngũ vị Tiên Ông, tứ phủ Quan Hoàng, tứ phủ Thánh Cô, tứ phủ Thánh Cậu. Nhưng có điều toàn bộ những pho tượng này đều là loại tượng mới. Trong đền còn có nhiều câu đối, đại tự ca ngợi cảnh vật của xứ sở này.
Tóm lại: Đền thờ Liễu Hạnh chân núi Đường Trèo, có quy mô lớn, trong một khung cảnh núi non, sông ngòi làng mạc sầm uất. Chỉ tiếc rằng, ngôi đền không còn nguyên vẹn như cũ. Ngay cả “chiếc lẫy gà” – theo cách gọi của người địa phương là nơi nguồn nước từ trong núi chảy qua lưỡi gà uốn vồng lên qua đền và đổ vào ao sen suốt bốn mùa cũng bị những người lấy đá lấp mất.
Đền được dựng theo hướng Nam, cấu trúc theo kiểu chữ đinh (J) gồm tiền đường và hậu cung. Tiền đường (dài 7,8m x rộng 8,8m = 68,6m2) và hậu cung (dài 7,1m x rộng 5,0m = 35,5m2). Phía trước nhà tiền đường là sân đền được trang trí cây cảnh và hòn non bộ và một số cây lưu niên khác.
Hiện vật trong di tích:
Những pho tượng Mẫu, tượng thánh ở Phủ Trèo đều là tượng mới.
Riêng ở đền thờ Ấp Lãng Chân Nhân, mới đây Ban Quản lí di tích đã tìm lại được pho tượng La Viện đặt trong khám thờ. Đây là một hiện vật gốc duy nhất còn lại của khu di tích.
Ngoài ra còn có một số đồ thờ như 4 cây đèn gỗ, 8 mâm bồng, 2 giá chiêng, 4 khay mịch, 6 kén thờ, 1 khám chỉ, và một số hộp đựng các đạo sắc.